Bệnh thủy đậu (Varicella hay Chicken pox)

Thủy đậu là bệnh do virus. Biểu hiện đặc trưng là các mụn nước kèm theo ngứa. Sau đó chúng bị bội nhiễm thành mụn mủ, rồi đóng vảy tiết. Thường sau bong vảy sẽ để lại sẹo, hay gặp là sẹo lõm. Trước khi xuất hiện các thương tổn da, người bị bệnh thủy đậu có thể biểu hiện triệu chứng toàn thân như sốt, đau họng, viêm đường hô hấp trên

Đại cương

Bệnh thủy đậu (Varicella hay Chicken pox) và bệnh zona (Herpes zoster hay Shingles) là biểu hiện lâm sàng khác nhau nhưng do cùng một loại virus gây nên (tên khoa học là Varicella zoster virus-VZV). Năm 1952, hai nhà khoa học là Weller và Scoddard đã phân lập và xác định được virus gây bệnh thủy đậu từ mụn nước của bệnh nhân. VZV thuộc nhóm virus herpes, kích thước 150-200nm, cấu trúc bên trong là ADN.

Sự khác nhau giữa bệnh thủy đậu và zona

Sự khác biệt về sinh bệnh học của bệnh thủy đậu và bệnh zona là do khả năng miễn dịch của người bệnh và tình trạng nhiễm trùng mà không phải do sự khác biệt về căn nguyên gây bệnh thủy đậu là biểu hiện lần đầu tiên khi cơ thể nhiễm VZV, là nhiễm trùng cấp tính lây lan rất mạnh và thường xảy ra ở trẻ nhỏ.

Còn zona là biểu hiện khi người bệnh đã từng bị nhiễm VZV, sau khi khỏi thủy đậu thì virus không bị diệt mà nằm ngủ trong hạch thần kinh cảm giác trong một thời gian dài, khi cơ thể bị suy giảm miễn dịch nhất thời hoặc do các tác động khác mà virus trở nên hoạt động và gây bệnh zona. Bệnh zona cũng có thể biểu hiện giống như thủy đậu khi miễn dịch của cơ thể suy giảm nặng.

Đặc trưng bệnh thủy đậu

Thủy đậu là bệnh nhiễm trùng lây truyền chủ yếu qua đường hô hấp, thường lành tính.

Bệnh có thể để lại sẹo lõm gây ảnh hưởng đến thẩm mỹ. Tuy nhiên, bệnh có thể gây biến chứng nguy hiểm như viêm phổi, viêm não… Ngoài ra, thủy đậu ở phụ nữ mang thai có thể gây biến chứng nghiêm trọng cho trẻ khi nhiễm virus bẩm sinh.

Ở trẻ em

Thủy đậu là bệnh lý phát ban và mụn nước cấp tính lây truyền mạnh thành dịch, thường xảy ra ở trẻ em. Đại đa số bệnh nhân là trẻ từ 2-10 tuổi. Tuy nhiên, gần đây có nhiều thanh thiếu niên và người trưởng thành cũng mắc bệnh này. Đó là nhiễm virus sơ phát ở những người dễ cảm thụ với virus thủy đậu. Khả năng nhiễm bệnh của những người chưa có miễn dịch khi tiếp xúc với bệnh nhân thủy đậu là khoảng 90%.

Bệnh nhân thường có tiền triệu thời gian ngắn trước khi xuất hiện các thương tổn bệnh. Nhưng có khi không có biểu hiện gì. Tiền triệu thường là các biểu hiện viêm long đường hô hấp hoặc biểu hiện như cúm. Biểu hiện ngoài da ban đầu là các ban ngứa hoặc các sẩn. Rồi nhanh chóng chuyển thành mụn nước, mụn mủ và đóng vảy tiết. Trẻ khoẻ mạnh các triệu chứng toàn thân thường nhẹ và các biến chứng nặng rất hiếm xảy ra.

Ở người lớn

Ở người lớn và những người suy giảm miễn dịch dù lứa tuổi nào cũng biểu hiện nặng với rất nhiều các thương tổn da.

Bệnh nhân có sốt cao, triệu chứng toàn thân nặng. Có thể bị viêm phổi và các biến chứng gây đe dọa tính mạng người bệnh. Trong tình trạng dịch HIV lan rộng thì thủy đậu càng có nhiều trường hợp bị biến chứng và biểu hiện lâm sàng không điển hình.

Đặc trưng của bệnh zona

Bệnh zona là bệnh khu trú, biểu hiện đau một bên rễ thần kinh và đám mụn nước khu trú theo dây thần kinh tuỷ sống hoặc dây thần kinh sọ não chi phối. Bệnh thường xảy ra ở người có tuổi, tuy nhiên có trường hợp trẻ em cũng bị zona. Trái với bệnh thủy đậu là bệnh nhiễm virus ở ngoài cơ thể xâm nhập vào thì bệnh zona là do các virus nằm ngủ ở trong hạch thần kinh từ khi bị thủy đậu. Khi cơ thể bị suy giảm miễn dịch tức thời hoặc do một số yếu tố tác động mà virus trở nên hoạt động và gây bệnh. Cũng như bệnh thủy đậu, trong bối cảnh dịch HIV tăng lên, số bệnh nhân mắc zona và bị biến chứng cũng như biểu hiện lâm sàng không đặc trưng ngày càng tăng cao.

Lịch sử bệnh thủy đậu

Trước đây bệnh zona đôi khi bị nhầm với herpes đơn dạng (herpes simplex) và các bệnh da khác, nhưng sau đó đã được phân biệt. Bệnh thủy đậu lại bị nhầm với bệnh đậu mùa trong thế kỷ XIX. Cũng trong thế kỷ XIX, các nhà khoa học đã nghiên cứu và xác định được thủy đậu là bệnh truyền nhiễm. Các nhà khoa học đã nghiên cứu bằng cách lây dịch từ mụn nước bệnh nhân thủy đậu và tiêm truyền cho những người tình nguyện. Đến năm 1952, hai nhà khoa học là Weller và Scoddard đã phân lập và xác định được virus gây bệnh thủy đậu từ mụn nước của bệnh nhân.

Cuối thế kỷ XIX, một nhà khoa học là Bokay đã xác định một số trẻ em mắc thủy đậu sau khi tiếp xúc với bệnh nhân zona. Sau đó, các nhà khoa học khác đã xác định hai bệnh này có liên quan với nhau. Các cháu nhỏ đã bị thủy đậu sẽ có miễn dịch khi tiếp xúc với bệnh nhân thủy đậu và zona.

Dịch tễ học bệnh thủy đậu

Chủng tộc

Bệnh thủy đậu có ở trên toàn cầu và có thể gặp ở mọi chủng tộc. Tỷ lệ nam nữ mắc bệnh như nhau. Bệnh lây truyền trực tiếp từ người sang người. Không có loại côn trùng nào làm lây truyền bệnh. Thủy đậu là một bệnh thường gặp nhất ở trẻ em khi không được tiêm chủng vaccin.

Lứa tuổi

Có tới 90% trường hợp bệnh thủy đậu xảy ra ở trẻ dưới 10 tuổi. Trước đây, hầu như trẻ em Việt Nam đều mắc bệnh này. Do vậy nhiều người cho rằng trẻ em mắc bệnh thủy đậu là điều bình thường. Quan niệm này là không đúng, ở nhiều nước phát triển bệnh thủy đậu hiếm gặp và do vậy trẻ em hầu như không mắc bệnh này. Hơn nữa, khi tiêm vaccin phòng bệnh sẽ giúp cho cơ thể có sức đề kháng, khi tiếp xúc với nguồn bệnh không bị mắc bệnh.

Thủy đậu ở trẻ nhỏ thường nhẹ hơn ở người trưởng thành. Tỷ lệ tử vong do thủy đậu ở người trưởng thành cao gấp 25 lần trẻ nhỏ. Virus thủy đậu lây truyền qua hô hấp và tiếp xúc trực tiếp với các thương tổn da là chủ yếu, lây gián tiếp rất hiếm. Khả năng bệnh nhân có thể truyền virus cho người khác xảy ra vài ngày trước khi nổi các ban mụn cho đến khi mụn nước cuối cùng khô đóng vảy tiết. Khi các mụn nước khô đóng vảy tiết thì không lây nhiễm cho người khác. Virus trong mụn nước của bệnh zona cũng có thể bay vào không khí và lây truyền cho người chưa có miễn dịch và thành bệnh thủy đậu.

Mùa

Bệnh hay xảy ra vào mùa lạnh như các bệnh lây truyền qua đường hô hấp khác.

Thời gian hay xảy ra dịch thủy đậu là mùa Đông Xuân. Các virus trong không khí (do người bệnh ho, hắt hơi phát tán virus vào không khí) xâm nhập vào trong niêm mạc đường hô hấp trên và vùng hầu họng, chúng phát triển tăng sinh và gây nhiễm virus máu, tại mạch máu chúng nhân lên trong tế bào liên võng nội mạch và gây nhiễm virus máu lần nữa rồi mới lây nhiễm da và niêm mạc, khi đó bệnh mới biểu hiện trên da mà chúng ta có thể nhìn thấy được.

Đường lây truyền

Thủy đậu là bệnh lây lan mạnh.

Những người chưa có miễn dịch với bệnh khi tiếp xúc với bệnh nhân có tỷ lệ mắc rất cao. Trên 90% những người này bị bệnh khi tiếp xúc với nguồn bệnh. Đường lây chủ yếu qua hô hấp, virus được bài tiết qua niêm mạc mũi họng và truyền cho người khác. Virus cũng được bài xuất qua các thương tổn mụn nước và lây truyền cho trực tiếp cho người nhiễm.

Bệnh nhân có thể lây bệnh cho người khác từ 1-2 ngày trước khi nổi ban đỏ cho đến khi mụn nước cuối cùng đóng vảy tiết, tức là khoảng một tuần kể từ ngày phát bệnh. Đa số bệnh nhân có biểu hiện bệnh rõ. Nhưng có một số người chỉ xuất hiện ít ban đỏ không rõ và mất đi nhanh. Tuy nhiên, những người này vẫn có thể lây bệnh cho những người khác khi tiếp xúc. Thường sau khi nhiễm VZV thì người bệnh có miễn dịch và không bị tái phát. Những người suy giảm miễn dịch do dùng thuốc ức chế miễn dịch, corticoid, nhiễm HIV/AIDS…, bệnh thủy đậu sẽ diễn biến lâu hơn, bệnh kéo dài hơn và khả năng lây bệnh cũng sẽ lâu hơn.

Thời gian ủ bệnh của thủy đậu thường 14-15 ngày và trong khoảng 10-23 ngày.

Khả năng lây lan của bệnh nhân vào khoảng 2 ngày trước khi nổi mụn và cho đến khi mụn cuối cùng đóng vảy. Như vậy khoảng gần 1 tuần sau khi phát bệnh. Do vậy, cần cách ly bệnh nhân trong khoảng thời gian 1 tuần lễ. Thủy đậu là bệnh lây theo đường hô hấp và lây lan rất mạnh. Có tới 90% những người chưa có miễn dịch với bệnh này sẽ bị lây khi tiếp xúc với nguồn bệnh.

Virus thủy đậu có thể gây nhiễm trùng máu và trong giai đoạn này có thể truyền cho thai, lây cho người khác khi truyền máu. Virus có thể thấy ở đường hô hấp trên, mụn nước, ngoài ra có thể thấy ở thực quản và họng bệnh nhân. Các thương tổn thường thấy ở da, ngoài ra còn có ở niêm mạc hô hấp, tiết niệu và dạ dày ruột. Sau khi nhiễm virus, người bệnh có miễn dịch và không mắc lại nữa. Tuy nhiên, ở những người bị suy giảm miễn dịch thì bệnh có thể tái phát với biểu hiện như lần mắc đầu tiên.

Ở người có miễn dịch bình thường thì virus nằm trong hạch thần kinh ở lưng. Khi sức đề kháng với VZV giảm, virus sẽ đi từ hạch thần kinh đi ra ngoài. Nên người bệnh thường thấy đau trước khi xuất hiện thương tổn da. Đau dây thần kinh sau zona là do loạn dưỡng thần kinh giao cảm và sẹo dây thần kinh. Bệnh thủy đậu xảy ra thành dịch thường vào mùa xuân, nhưng bệnh cũng xảy ra rải rác quanh năm.

Tác nhân gây bệnh thủy đậu

Hai bệnh thủy đậu và zona cùng gây nên bởi một loại virus là Herpesvirus Varied hay Varicella-Zoster Virus (VZV). VZV là một loại herpesviruses, có kích thước khoảng 150-200nm. VZV có vỏ lipid bao quanh nhân nucleocapsid, chuỗi kép ADN. VZV có thể lây truyền qua nước bọt hoặc lây trực tiếp ở các thương tổn da.

Thủy đậu là giai đoạn nhiễm virus sơ phát, sau đó virus đi vào và nằm trong tế bào hạch thần kinh mà thường là thần kinh cảm giác. Zona là do các virus tái hoạt động.

Ở nước ta, bệnh thủy đậu có từ lâu đời và gặp ở các vùng trên toàn quốc. Bệnh lây truyền qua các giọt nước mũi họng của bệnh nhân đào thải ra khi mắc bệnh. Bệnh nhân lây truyền bệnh cho người khác 2 ngày trước khi xuất hiện các thương tổn ở da và đến 5 ngày sau khi xuất hiện các thương tổn. Các mụn nước chứa nhiều virus, nhưng khả năng lây truyền dường như không cao. Các mụn nước đã đóng vảy tiết khô thì không còn lây lan nữa.

Tại các thành phố, thủy đậu bùng phát thành dịch nhưng không theo chu kỳ nhất định. Lứa tuổi mắc bệnh nhiều nhất từ 2-10 tuổi. Trong vụ dịch, một số người nhiễm virus nhưng không có biểu hiện lâm sàng bệnh thủy đậu.

Khi mắc bệnh thủy đậu cơ thể có miễn dịch bền vững.

Rất hiếm trường hợp mắc thủy đậu lần thứ 2 ở những người khoẻ mạnh. Tuy nhiên, cùng có trường hợp mắc lại thủy đậu nhưng thường nhẹ.

Khi mắc bệnh, các kháng thể dịch thể trong cơ thể tăng lên. Nhưng các kháng thể này không có hiệu quả phòng bệnh mà chỉ có tác dụng làm cho bệnh nhẹ hơn. Miễn dịch qua trung gian tế bào rất quan trọng. Những người bị suy giảm miễn dịch trung gian tế bào thường bị bệnh nặng. Các thương tổn da lan tỏa, hoại tử xuất huyết và có thể bị viêm phổi, viêm gan, viêm não. Hơn nữa bệnh nhân còn có thể bị tái phát nhiều lần.

Phụ nữ mang thai mắc thủy đậu trong khoảng 20 tuần đầu có nguy cơ ảnh hưởng nặng đến thai. Khoảng 2% với các tổn thương thai như tổn hại hệ thần kinh trung ương, mắt, thiểu sản hệ lymphô và tử vong trẻ sơ sinh.

Xét nghiệm phát hiện VZV có thể bằng các kỹ thuật miễn dịch, nuôi cấy virus, xét nghiệm dịch mụn nước.

Triệu chứng lâm sàng bệnh thủy đậu

Thủy đậu là bệnh do virus, lây lan rất mạnh chủ yếu qua đường hô hấp, thường thành dịch. Biểu hiện đặc trưng là các mụn nước ngứa. Sau đó bị bội nhiễm thành mụn mủ, rồi đóng vẩy tiết sau đó để lại sẹo, thường là sẹo lõm. Trước khi xuất hiện các thương tổn da, người bệnh có thể biểu hiện triệu chứng toàn thân như sốt, đau họng, viêm đường hô hấp trên. Một số bệnh nhân có thể bị biến chứng viêm phổi và viêm não.

triệu chứng bệnh thủy đậu, điều trị bệnh thủy đậu tại thái bình
Triệu chứng bệnh thủy đậu

Thời gian ủ bệnh khoảng 14 ngày (10-23 ngày). Trước khi xuất hiện các mụn nước thủy đậu có thể có triệu chứng toàn thân, thường hay có ở người trưởng thành còn trẻ nhỏ biểu hiện nhẹ hơn. Các biểu hiện như sốt, nhức đầu, mệt mỏi, đau người, đau lưng nhiều.

Triệu chứng da xuất hiện sớm nhất là các ban đỏ, các sẩn. Sau đó nhanh chóng thành các mụn nước. Các thương tổn thủy đậu có ngứa. Trẻ nhỏ số lượng thương tổn thường ít, rải rác. Nhưng ở người trưởng thành thì thường nhiều thương tổn hơn, thậm chí các thương tổn mọc dày khắp cơ thể.

Các mụn nước rất nhỏ như những giọt sương trên cánh hoa hồng, nông. Xung quanh là quầng đỏ, ở giữa lõm như bánh dày. Kích thước mụn nước khoảng 2-3mm. Mụn nước nhanh chóng thành mụn mủ và đóng vảy tiết. Có thể thấy trên người bệnh cùng lúc các thương tổn là sẩn, mụn nước, mụn mủ và vảy tiết.

Triệu chứng da của bệnh thủy đậu
Triệu chứng da của bệnh thủy đậu

Thủy đậu thường mọc các mụn đầu tiên ở mặt và đầu, sau đó lan xuống thân mình, các chi.

Các thương tổn mọc nhiều hơn ở thân mình và mặt, ít hơn ở các chi. Bàn tay, bàn chân có thể thấy vài thương tổn. Các nốt thủy đậu có thể mọc ở mắt, miệng. Khi các mụn nước đóng vảy tiết, sau khoảng 1-3 tuần sẽ bong vẩy và để lại vết đỏ tươi, lõm rồi lành dần. Nhưng một số có thể để lại sẹo lõm vĩnh viễn. Một số trường hợp mụn nước bị xuất huyết. Các biến chứng có thể xảy ra là nhiễm trùng tại chỗ tụ cầu, liên cầu gây nên chốc, nhọt, viêm mô tế bào và hoại thư. Niêm mạc cũng có thể có mụn nước nhưng ít và thường để lại vết trợt nông.

Thương tổn trên da ở bệnh thủy đậu
Thương tổn trên da ở bệnh thủy đậu

Thương tổn hay có ở vòm miệng, nhưng cũng có thể thấy ở niêm mạc mũi, kết mạc mắt, họng, thanh quản, phế quản, đường tiêu hoá, tiết niệu và âm đạo. Các mụn thủy đậu thường ngứa. Từ khi xuất hiện mụn nước đến khi đóng vẩy tiết khô và lành vào khoảng 4-5 ngày. Số lượng mụn nước có thể chỉ vài thương tổn. Nhưng cũng có trường hợp đến vài trăm thương tổn dày đặc toàn thân và cả ở niêm mạc mắt, mũi, miệng họng…

Tiến triển và biến chứng

Các biến chứng của thủy đậu

Biến chứng thường gặp nhất của bệnh là nhiễm trùng các mụn thủy đậu gây sẹo xấu.

Tiến triển của bệnh trên trẻ khỏe mạnh lành tính và thường tự khỏi. Biến chứng thường gặp là bội nhiễm tụ cầu trùng.

Tuy nhiên, sau khi khỏi bệnh các thương tổn có thể để lại di chứng là các sẹo lõm gây ảnh hưởng đến thẩm mỹ của người bệnh. Đặc biệt các thương tổn sẹo lõm ở mặt làm cho người bệnh mất tự tin.

Biến chứng nặng hơn có thể gây đe doạ tính mạng người bệnh là: nhiễm trùng máu, viêm phổi khi các mụn thủy đậu bị bội nhiễm tụ cầu trùng trong khi cơ thể đang bị suy yếu.

Các biến chứng do virus thủy đậu gây ra là viêm não, viêm phổi, người lớn có tỷ lệ biến chứng cao hơn ở trẻ em.

Các biến chứng khác có thể xảy ra là viêm khớp, viêm màng bồ đào, viêm kết mạc mắt, viêm tim, viêm thận, viêm tinh hoàn…

Thủy đậu ở người lớn nặng hơn ở trẻ em và tỷ lệ tử vong cao hơn. Trẻ sơ sinh bị thủy đậu bị biến chứng viêm phổi và viêm não cao hơn trẻ lớn.

Những biến chứng nghiêm trọng của thủy đậu có thể xảy ra trên những người có suy giảm miễn dịch như dùng corticoid, các thuốc ức chế miễn dịch khác, nhiễm HIV/AIDS… Bệnh nhân có thể bị viêm phổi, viêm gan, viêm não, xuất huyết, nhiễm trùng huyết…

Sẹo lõm do bệnh thủy đậu
Sẹo lõm do bệnh thủy đậu

Ngoài ra có thể có biến chứng viêm não. Người lớn thường có triệu chứng toàn thân nặng như sốt cao, viêm não, biến chứng viêm đường hô hấp. Tỷ lệ bị viêm não, viêm phổi cao hơn ở trẻ em. Các biến chứng khác có thể xảy ra là viêm khớp, viêm màng bồ đào, viêm kết mạc mắt, viêm tim, viêm thận, viêm tinh hoàn…

Phụ nữ có thai mắc thủy đậu trong 3 tháng đầu thai kỳ có thể gây sảy thai, tử vong thai nhi hay bị dị tật như đầu nhỏ, bại não, sẹo trên da bẩm sinh do các nốt thủy đậu để lại. Trẻ sơ sinh bị thủy đậu có biến chứng viêm phổi và viêm não cao hơn trẻ lớn. Nếu phụ nữ có thai bị thủy đậu khi sắp sinh hay ngay sau khi sinh thì trẻ có thể bị lây bệnh. Biểu hiện bệnh lý nặng như mụn nước nổi rất nhiều và có biến chứng viêm phổi. Do vậy, cần rất thận trọng khi chăm sóc, điều trị cho phụ nữ có thai bị thủy đậu.

Chẩn đoán bệnh thủy đậu

Chẩn đoán xác định

Chẩn đoán bệnh thủy đậu thường không khó khăn và chủ yếu dựa vào các biểu hiện lâm sàng đặc trưng của bệnh. Yếu tố dịch tễ cũng góp phần cho chẩn đoán khi bệnh đang lưu hành, bệnh nhân có tiếp xúc với nguồn bệnh trước đó.

Thường trước khi xuất hiện bệnh, người bệnh có tiền triệu như sốt nhẹ, viêm đường hô hấp và đau người… Sau đó các mụn nước mọc từ trên đầu xuống. Các mụn nước thường lõm ở giữa, cùng với mụn nước có thể thấy các ban đỏ, mụn mủ, mụn đóng vảy tiết.

Trong một số trường hợp đặc biệt có thể cần đến xét nghiệm khẳng định chẩn đoán. Có thể xét nghiệm tế bào học theo phương pháp Tzanck có tế bào đa nhân khổng lồ.

Chẩn đoán phân biệt

Các bệnh có thể nhầm với thủy đậu là bệnh chốc, bệnh tay-chân-miệng khi đã mọc mụn nước. Các bệnh dị ứng thuốc khi bệnh trong giai đoạn phát ban.

Phân biệt thủy đậu với các bệnh khác
Phân biệt thủy đậu với các bệnh khác

Điều trị bệnh thủy đậu

Bệnh thủy đậu thường điều trị tại nhà mà không cần nhập viện. Các trường hợp nặng và có biến chứng thì phải nhập viện để theo dõi và xử trí kịp thời.

Nguyên tắc điều trị bệnh thủy đậu

– Hầu hết bệnh nhi bị bệnh thủy đậu chỉ cần điều trị triệu chứng chống ngứa, chống nhiễm trùng thương tổn. Kết hợp tăng cường sức đề kháng và dùng thuốc kháng virus.

– Điều trị triệu chứng các thương tổn gây ngứa bằng kháng histamin.

– Các thuốc kháng virus như acyclovir, valacyclovir phải dùng sớm 24 giờ trước khi xuất hiện thương tổn.

– Trường hợp bội nhiễm dùng các thuốc bôi chống nhiễm trùng như: dung dịch millian, xanh methylen, đỏ eosin, mỡ mupirocin. Và nếu cần dùng kháng sinh toàn thân. Việc điều trị nhằm mục đích chống nhiễm trùng các thương tổn để phòng ngừa biến chứng tại chỗ. Và nặng hơn là nhiễm trùng huyết có thể xảy ra.

Khi mắc bệnh vẫn cần vệ sinh hàng ngày để tránh nhiễm trùng.

Nhưng cần tắm rửa bằng nước ấm, ở nơi kín gió đề phòng biến chứng viêm phổi.

Tuyệt đối không được bôi, tắm hoặc đắp các loại lá vì có thể gây nhiễm trùng. Cũng không được xoa rượu hay cồn khi các nốt thủy đậu mọc vì làm như vậy có thể gây viêm tấy các thương tổn. Tránh cọ xát, nếu bệnh nhi ngứa nhiều thì chống ngứa bằng siro chống ngứa. Mặc đồ mềm mại, thoáng mát cho trẻ.

– Cần cho ăn uống đầy đủ các chất dinh dưỡng. Không cần kiêng cữ bất kỳ loại thức ăn nào. Tuy nhiên, nên cho trẻ ăn các thức ăn mềm, dễ tiêu. Tăng cường cho uống nước hoa quả tươi.

– Gia đình cần theo dõi chặt chẽ diễn biến của bệnh nhân để phát hiện sớm các dấu hiệu nặng, các biến chứng của bệnh nhân. Khi thấy các nốt đậu tấy đỏ, có mủ hay có xuất huyết. Hoặc bệnh nhân sốt cao, đau đầu nhiều, bệnh nhân lờ đờ hoặc kích động, khó thở, thở nhanh mệt mỏi, đau ngực… cần phải đưa ngay đến bệnh viện.

Phác đồ điều trị bệnh thủy đậu

– Người lớn: thuốc thường dùng nhất hiện nay là acyclovir.

+ Acyclovir 800 mg, uống 5 viên/ngày. Chia 5 lần, cách 4-5h uống 1 viên, trong 1 tuần, hoặc

+ Valacyclovir lg, uống 3 lần/ngày. Cách nhau 8h, trong 1 tuần, hoặc

+ Famciclovir 500 mg, uống 3 lần/ngày. Cách nhau 8h, trong 7-10 ngày.

Trường hợp suy giảm miễn dịch nặng có thể phải truyền acyclovir đường tĩnh mạch.

+ Trường hợp virus kháng acyclovir: foscanet 40mg/kg cân nặng. Truyền 3 liều/ngày, cách nhau 8h cho đến khi bệnh khỏi.

Trẻ em từ 2-18 tuổi:

+ Acyclovir, uống liều 20mg/kg cân nặng. Cứ 6h uống 1 liều trong 5-7 ngày, hoặc

+ Valacyclovir 20mg/kg cân nặng. Cách nhau 8h uống 1 liều, trong 5-7 ngày.

– Trẻ sơ sinh: Acyclovir 10mg/kg cân nặng. Uuống cách nhau 8h một liều trong 10 ngày.

Trong trường hợp cần thiết (đối với những người bị suy giảm miễn dịch nặng, bệnh nhân ung thư, người đang dùng các thuốc ức chế miễn dịch, phụ nữ có thai, trẻ đẻ non…) mà tiếp xúc với bệnh nhân thủy đậu, để đề phòng biến chứng cho người bệnh có thể tiêm globulin miễn dịch thủy đậu (Varicella Zoster Immunoglobulin – VZIG). Thuốc có hiệu lực tạm thời phòng mắc bệnh khi tiếp xúc, không có hiệu lực lâu dài như vaccin.

Lưu ý: khi trẻ sốt cao cho không dùng aspirin vì có thể gây hội chứng Reye. Hội chứng này có thể biến chứng gan, não gây tử vong.

Các biện pháp phòng tránh

Vaccin có tác dụng phòng các triệu chứng thủy đậu, hiệu quả khoảng 80%. Một số trường hợp tiêm vaccin nhưng vẫn mắc bệnh, nhưng thường nhẹ. Vaccin cũng có hiệu quả làm giảm tỷ lệ mắc zona trên bệnh nhân thủy đậu. Hiện nay có vaccin Okavax và một số vaccin khác phòng thủy đậu được Bộ Y tế cho phép lưu hành tại nước ta.

Vaccin phòng thủy đậu được chỉ định cho trẻ 12 tháng tuổi trở lên, cho thanh thiếu niên và người lớn chưa từng bị bệnh và chưa tiêm phòng thủy đậu. Hiệu quả của vaccin có thể đến 10 năm.

Một số trường hợp bị suy giảm miễn dịch cần phải thận trọng khi dùng vaccin này. Vaccin có thể có hiệu lực ngừa nhiễm bệnh sau gần 1 tuần từ khi tiêm. Liều tiêm phòng cho trẻ 1-12 tuổi là 1 lần duy nhất. Trẻ trên 12 tuổi và người lớn tiêm 2 lần cách nhau 6- 10 tuần. Không tiêm vaccin phòng thủy đậu cho trẻ dưới 1 tuổi. Một điều cần chú ý là vaccin phòng thủy đậu là vaccin virus sống giảm độc lực nên phải tiêm cách các vaccin sống khác như phòng sởi, quai bị, lao ít nhất 4 tuần để tránh tai biến xảy ra.

Khi có dịch thủy đậu, cần cách ly bệnh nhân từ khi có triệu chứng ban đầu cho đến khi mụn nước cuối cùng đóng vảy tiết khô. Thời gian thường là 1 tuần kể từ khi phát ban. Các vật dụng như khăn mặt, bát đũa cũng cần phải dùng riêng.

Bệnh thủy đậu như đã biết ở trên là bệnh có diễn biến lành tính nếu không có biến chứng. Nhưng điều đáng ngại của bệnh này là sẹo do các thương tổn trên da để lại. Nguyên nhân chủ yếu là do các mụn thủy đậu bị bội nhiễm vi trùng.

Để tránh các sẹo này ta cần chú ý:

Mặc quần áo mỏng, nhẹ, tốt nhất quần áo bằng chất liệu cotton.

Cắt ngắn móng tay và luôn sạch, có thể đi bao tay cho trẻ để tránh gãi.

Hàng ngày tắm rửa sạch sẽ và giữ ấm khi tắm.

Thay quần áo và vệ sinh sạch sẽ giường chiếu.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *