Viêm da do bọ chét (Flea dermatitis)

Viêm da do bọ chét ở Việt Nam thường do bọ chét chó (Ctenocephalides felis) và bọ chét mèo. Ngứa là triệu chứng chính xuất hiện sau khi bị bọ chét đốt. Ngứa làm bệnh nhân gãi có thể gây trầy xước da. Sau xuất hiện các sẩn huyết thanh kích thước l-2mm, gờ cao hơn mặt da, đỉnh chóp sẩn có mụn nước nhỏ…

Đại cương bệnh do bọ chét

Bọ chét thuộc bộ Siphonaptera, không có cánh. Bọ chét sống ký sinh bên ngoài nhờ hút máu của những động vật máu nóng, có vú và loài chim. Có tới trên 2.200 loai bọ chét. Trong đó có những loài thường gặp là:

Bọ chét mèo (Ctenocephalides felis)

Vật chủ chính của bọ chét là mèo nhà nhưng loài này cũng lây nhiễm cho phần lớn các loài chó trên thế giới. Bọ chét mèo cũng có thể có chu trình sinh học trên các loài động vật ăn thịt khác và trên loài thú có túi. Loài người cũng có thể bị bọ chét mèo cắn nhưng không thể bị lây nhiễm vì lý do loài bọ chét này không thích ứng được với môi trường trên vật chủ lạc chỗ là người.

Bọ chét chó (Ctenocephalides canis).

Bọ chét người (Pulex irritans):

Có vai trò truyền bệnh dịch hạch từ người sang người.

Bọ chét chuột

– Bọ chét chuột miền Bắc (Nosopsyllus fasciatus).

– Bọ chét chuột phương Đông (Xenopsylla cheopis): là một loài côn trùng ký sinh trên các động vật gặm nhấm, chủ yếu là chuột và đóng vai trò là trung gian truyền bệnh dịch hạch và sốt phát ban chuột. Sự lan truyền bệnh xảy ra khi bọ chét hút máu loài gặm nhấm và sau đó hút máu người. Bọ chét chuột phương Đông được biết đến nhiều vì nó đóng vai trò trong gieo rắc “Cái chết đen” bệnh dịch hạch.

Sinh thái của bọ chét

Hiểu biết về sinh thái của các loài bọ chét là rất quan trọng, giúp chúng ta nắm được sự phân bố của chúng trên thế giới, mật độ, khả năng gây bệnh và truyền bệnh của chúng.

– Bọ chét là loài ký sinh trùng biến thái hoàn toàn. Vòng đời của bọ chét khoảng 20 đến 35 ngày phụ thuộc vào nhiệt độ và độ ẩm của môi trường. Bọ chét phát triển trong điều kiện nóng ẩm, thích hợp ở nhiệt độ 21-35°C và độ ẩm 70-85%. Gặp điều kiện không thuận lợi, khi nhiệt độ đột ngột hạ thấp thì bọ chét ngừng phát triển và tồn tại kéo dài vài tháng đến một năm.

Ở môi trường trong nhà, bọ chét sinh sản quanh năm. Ở ngoài trời, chỉ phát triển vào những tháng ấm. Ở miền Bắc nước ta, bọ chét phát triển nhiều vào tháng 2 tháng 3 khi thời tiết chuyển từ mùa đông sang mùa xuân hè.

Vòng đời của bọ chét

– Vòng đời của bọ chét có 4 giai đoạn: giai đoạn trứng, ấu trùng, nhộng và trưởng thành. Vòng đời được bắt đầu từ bọ chét cái đẻ trứng.

– Điểm đặc biệt của bọ chét trưởng thành là khi có khả năng sinh sản thì chúng mới hút máu. Cả bọ chét đực và cái đều hút máu. Bọ chét trưởng thành có thể nhịn đói và sống được vài tháng. Bọ chét cái chỉ đẻ trứng sau khi đã hút máu. Sau mỗi lần hút máu, Một bọ chét cái đẻ từ 2-20 trứng. Suốt cuộc đời một bọ chét cái đẻ khoảng 800 trứng. Trứng có thể dính trên da, lông của vật chủ hoặc rơi xuống đất. Vì vậy, thường những vùng đất mà vật chủ ngủ hoặc trú ngụ là môi trường sống đầu tiên của trứng để phát triển thành ấu trùng bọ chét.

Giai đoạn ấu trùng:

Sau khoảng 2-14 ngày, tùy theo điều kiện môi trường, trứng nở thành ấu trùng không có chân. Ấu trùng sống ở đất, phát triển bằng cách thay lông và lột xác 3 lần trong vòng 8 đến 24 ngày. Ấu trùng có thể kéo dài thời gian phát triển trên 6 tháng trong điều kiện không thuận lợi. Ấu trùng bọ chét sống ở các kẽ sàn nhà, ga trải giường, thảm và ở chỗ ngủ của động vật. Chúng không có chân nhưng chuyển động nhờ lông cứng trên cơ thể. Ấu trùng thích chỗ tối, ẩm ướt. Ở đó chúng ăn những mảnh chất hữu cơ như phân của bọ chét trưởng thành, phân và những mảnh thức ăn thừa của vật chủ.

Giai đoạn nhộng

Trước khi chuyển sang giai đoạn nhộng bất hoạt, ấu trùng bọ chét phát triển đầy đủ các bộ phận rồi tự nhả tơ quấn xung quanh mình để tạo thành kén (nhộng). Giai đoạn nhộng kéo dài từ 5-7 ngày nhưng có thể tới một năm trong những điều kiện không thuận lợi.

Giai đoạn trưởng thành của bọ chét

Bọ chét trưởng thành có kích thước nhỏ, dài khoảng 1,5 – 3,3mm, màu đỏ thẫm hoặc đen, đôi chân sau thay đổi, trở nên dài, to mập để nhảy. Bọ chét trưởng thành có thể nhảy cao đến 18cm và xa đến 33 cm. Thân chúng dẹt ở hai bên, lưng có gai hướng về phía sau làm hoạt động của chúng chỉ tiến về phía trước xuyên vào lông, tóc của vật chủ và giúp chúng không bị tuột ra ngoài. Bọ chét trưởng thành tồn tại ở trong kén cho đến khi gặp vật chủ thích hợp.

Tùy theo điều kiện của môi trường, bọ chét trưởng thành có thể ở trong kén tới 5 tháng để chờ vật chủ. Trong kén, bọ chét trưởng thành nhận biết được sự có mặt của vật chủ thích hợp bằng cảm nhận hơi nóng, mùi của cơ thể vật chủ, luồng khí, rung động của sàn và môi trường xung quanh. Khi phát hiện được vật chủ thích hợp, bọ chét chui ngay ra khỏi kén và tìm đến vật chủ. Đặc điểm sinh thái này chính là lý do thấy bọ chét trưởng thành xuất hiện nhiều khi người ta trở về nhà sau chuyến du lịch hoặc khi dọn đến nhà mới.

Bọ chét tránh ánh sáng, thường tìm thấy trong các đám lông tơ, lông vũ của động vật hoặc ở giường ngủ, quần áo củangười. Do có khả năng nhảy rất xa cho nên khi vật chủ bị chết, bọ chét có thể nhảy đi tìm vật chủ khác. Bọ chét thường ký sinh ở chó, mèo, chuột và nhảy sang người.

Nhận dạng bọ chét

Bọ chét trưởng thành có kích thước 0,5 x 3,5mm

+ Màu sắc thay đổi từ hơi nâu đỏ đến nâu đen (bọ chét chó hoặc mèo).

+ Không có cánh, thân dẹt theo 2 bên, người có nhiều gai xuôi về phía sau.

+ Hai càng sau mập và dài, dùng để nhảy.

Ấu trùng dài 4-10mm, màu trắng, không có chân nhưng rất cơ động.

Nhộng được ngụy trang tốt vì rất dính và nhanh chóng được các hạt bụi, cát mịn bao quanh.

Gây bệnh và truyền bệnh của bọ chét

Loại bọ chét truyền bệnh

Bọ chét truyền bệnh dịch hạch

Lịch sử bệnh dịch hạch

Dịch hạch đã xuất hiện từ thời cổ xưa, tồn tại đến ngày nay. Trong vòng 2.000 năm qua đã gây bốn trận đại dịch với số tử vong khủng khiếp trong lịch sử nhân loại. Nhất là hai đại dịch vào thế kỷ VI làm chết gần 40 triệu người và thế kỷ XIV nổi tiếng với tên “trận dịch đen” thời Trung cổ, ước tính gây tử vong cho khoảng 25 triệu người châu  u, 40 triệu người châu Á, châu Phi. Đến năm 1895, Alexandre Yersin là người đầu tiên phát hiện ra căn nguyên của dịch hạch. Bệnh truyền nhiễm tối nguy hiểm do vi khuẩn Yersinia pestis gây ra. Đây là loại bệnh của thú vật truyền sang người.

Bọ chét là vật chủ trung gian truyền bệnh dịch hạch.

Đầu tiên dịch hạch xảy ra ở các loài động vật hoang dại như chuột và một số loài gặm nhấm khác. Khi chúng bị chết, bọ chét sẽ rời vật chủ sang đốt người và có thể truyền bệnh cho người. Loài bọ chét chuột phương Đông (Xenopsylia cheopis) đóng vai trò chính trong việc truyền bệnh dịch hạch từ chuột sang người. Bọ chét chuột phương Đông không có hàm răng lược ở hàm và ở ngực. Đặc điểm này được dùng để phân biệt với các loài bọ chét mèo, bọ chét chó và những loài bọ chét khác. Sau đó bệnh có thể truyền từ người sang người bởi bọ chét người (Pulex irritans).

Dịch hạch là bệnh có ổ dịch từ thiên nhiên, rất nguy hiểm bởi vì nó xảy ra rộng rãi ở các quần thể loài gặm nhấm. Trước đây, dịch hạch được gọi là “cái chết đen” và là nguyên nhân gây ra các vụ dịch thảm khốc. Hiện nay, dịch hạch vẫn còn là bệnh rất nguy hiểm vì nó thường xảy ra rộng rãi ở quân thể của các loài gặm nhấm.

Ở vùng nông thôn, miền núi, dịch hạch xảy ra khi con người đi vào vùng tiếp xúc với các loài động vật hoang dã. Nguy hiểm nhất là những người thợ săn. Họ có thể bị bọ chét đã nhiễm bệnh dịch hạch chích đốt trong khi mang vác các động vật vừa giết được. Ở các đô thị, dịch hạch có thể xảy ra khi chuột sống quanh những khu dân cư bị nhiễm bệnh.

Biểu hiện bệnh dịch hạch

Gồm 3 thể lâm sàng

Thể hạch:

Bọ chét đã nhiễm vi khuẩn Yersinia pestis đốt người, truyền sang người Yersinia pestis gây viêm, sưng đau hạch vùng, kèm sốt trên 38°C. Các hạch bạch huyết chứa đầy vi khuẩn, đặc biệt là hạch ở nách và bẹn. Nếu chẩn đoán và điều trị đúng, kịp thời thì bệnh nhân sớm khỏi bệnh. Nếu không được phát hiện, điều trị sớm thì tỷ lệ tử vong có thể chiếm tới 50%.

Từ hạch, vi khuẩn dịch hạch vào máu gây nhiễm trùng huyết. Vi khuẩn nhân lên làm các nội tạng bị nhiễm độc tố gây nhiễm trùng toàn thân, xuất huyết, thân thể tím đen, viêm màng não… Bệnh nhân sẽ sốt cao 40-41°C, rét run đau đầu dữ dội, tiêu chảy và nôn mửa nhiều lần, hốt hoảng, vật vã, kích động, nói sảng, thở nhanh nông.

Thể phổi:

Có những tổn thương tại phổi, lây lan rất mạnh do vi khuẩn dịch hạch dễ dàng phát tán từ người bệnh sang người lành qua nước bọt, đờm dãi khi ho hoặc hắt hơi. Bệnh nhân sốt cao, rét run, đau đầu, hoa mắt, chóng mặt, bứt rứt. Khoảng 24 giờ sau bệnh nhân sẽ thấy đau tức ngực, khó thở, thở nhanh nông. Ho có đờm nhầy và loãng sau đặc dần, có máu hoặc có nước bọt. Nếu không được điều trị sớm thì hầu hết tất cả các trường hợp đều tử vong.

Thể phổi có hai loại: thể phổi nguyên phát do vi khuẩn dịch hạch được hít vào bằng đường hô hấp (thường gặp ở thợ săn, những người sử dụng đồ lông thú). Những vi khuẩn dịch hạch khi hít phải sẽ thâm nhập vào phổi gây viêm phổi tiên phát, viêm hoại tử phổi, nhiễm độc dẫn đến suy hô hấp, tử vong. Thể phổi thứ phát là viêm phổi, bệnh nhân khạc ra máu, ra đờm. Trong đờm và máu có vi khuẩn dịch hạch, người ngoài hít phải vi khuẩn dịch hạch từ đờm bệnh nhân trở thành viêm phổi tiên phát rất nặng.

Giai đoạn sớm dịch hạch, cần lưu ý đến khu vực sinh sống có bọ chét, chuột). Nhất là khi phát hiện có chuột chết, sau đó người bị sốt, nổi hạch… thì nhanh chóng đi khám bệnh. Với những người hay làm thịt chuột cũng cần hết sức cảnh giác nếu tay có vết xước bởi vì vi khuẩn gây bệnh dịch hạch có thể xâm nhập qua vết thương hở vào máu và gây bệnh.

Xét nghiệm

Bệnh phẩm: mủ (hạch), máu, đờm, nhầy họng, phủ tạng, huyết thanh chuột, bọ chét.

+ Nhuộm gram soi dưới kính hiển vi thấy trực khuẩn dịch hạch Yersinia pestis bắt màu gram âm thuộc họ Enterobacteriaceae.

+ Nuôi cấy phân lập vi khuẩn.

+ Phát hiện kháng nguyên Fl.

+ Miễn dịch huỳnh quang.

Chẩn đoán phân biệt bệnh dịch hạch

Viêm hạch do nhiễm các loại vi khuẩn khác như tụ cầu, trực khuẩn lao…

Điều trị bệnh dịch hạch

+ Các loại thuốc điều trị đặc hiệu là:

Streptomycin rất có hiệu quả. Liều: 3g/ngày tiêm 0,5g/lần cách 4giờ x 2 ngày. Sau giảm liều 2g/ngày x 7-10 ngày.

Nếu vi khuẩn kháng với streptomycin thì thay bằng kanamycin lg/ngày.

Tetracyclin: Liều 50mg/kg/ngày x 2-3 g/ngày, khi sốt giảm thì giảm liều còn 2g/ngày x 7-10 ngày.

Chloramphenicol 50mg/kg/ngày x 7-10 ngày.

Bactrim 480mg, 6-8 viên/ngày.

Kháng sinh mới hiện nay có tác dụng tốt với dịch hạch. Nhóm Cephalosporin thế hệ III: Ceftriaxone tiêm bắp thịt hoặc tĩnh mạch 2-3 g/24 giờ hoặc nhóm Quinolon.

Với thể nhiễm khuẩn huyết, thể phổi có thể dùng phối hợp 2 hoặc 3 loại kháng sinh trên.

+ Điều trị triệu chứng: bù nước điện giải, chống toan máu. Trợ tim mạch. Giảm đau, hạ sốt, an thần.

Bọ chét truyền bệnh sốt phát ban

Bệnh xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới và thường được ghi nhận tại các vùng con người sống có nhiều chuột. Nguyên nhân gây bệnh do Rickettsia mooseri, gặp rải rác ở các đàn chuột. Vì vậy, bệnh sốt phát ban do bọ chét còn gọi là sốt phát ban chuột. Bệnh lây lan chủ yếu do bọ chét chuột và bọ chét mèo. Người bị lây nhiễm do ô nhiễm từ phân khô và xác bọ chét. Loài bọ chét chính có vai trò trung gian truyền bệnh là Xenopsylla cheopis.

Triệu chứng lâm sàng

Thời gian ủ bệnh từ 2-3 tuần, xuất hiện các ban đỏ ngoài da vào khoảng ngày thứ 5, nhưng không xuất huyết. Thời gian sốt khoảng 2 tuần nhưng có thể rút ngắn khi sử dụng kháng sinh. Ít khi có biến chứng.

Xét nghiệm

Để chẩn đoán phân biệt với sốt phát ban do Rickettsia phát ban dựa trên phản ứng vi ngưng kết đặc hiệu với Rickettsia mooseri (hiệu giá tối thiểu 1/160 vào ngày thứ 10).

Điều trị

Người lớn dùng tetracyclin hoặc chloramphenicol: Ngày đầu 2-3g. Những ngày sau từ 1-2 g/ngày chia làm 4 lần cho đến khi hết sốt.

Nhiều loại kháng sinh khác cũng có tác dụng tốt như: aureomycin, lincomycin, fluoroquinolone.

Dùng thuốc trợ tim, trợ hô hấp (thở oxy) nếu cần thiết.

Đối với trẻ em và phụ nữ có thai, dùng rovamycin.

Tiên lượng: tốt.

Bọ chét truyền các bệnh sán

Bọ chét có thể truyền các loại sán ở chuột là Dipylidium caninum, Hymenolepịs fraterna và Hymenolepis diminuta. Người bị nhiễm các loại sán này là do nuốt phải ấu trùng bọ chét có chứa trứng sán. Sán trưởng thành sống trong ruột non của vật chủ chính (chuột). Những đốt sán có trứng tách khỏi chuỗi đốt sán hoặc thành đốt đơn độc hoặc thành chuỗi đốt sán ngắn hơn. Rồi sau đó chúng di chuyển tự do trong ruột qua hậu môn ra ngoài môi trường hoặc thấy trong phân chuột. Bằng cách di chuyển theo nhu động của các đốt sán có trứng, chúng ly giải trứng rơi vãi trên nền nhà và xung quanh hậu môn chuột. Trứng này được ấu trùng bọ chét tiêu hóa.

Biểu hiện lâm sàng: từ nhẹ đến vừa với các triệu chứng: chán ăn, biếng ăn, rối loạn tiêu hóa nhẹ, khó tiêu, đau bụng, tiêu chảy và ngứa vùng xung quanh hậu môn, suy nhược, thiếu máu, gầy sút.

Chẩn đoán:

Thấy những đốt sán (đốt riêng rẽ hoặc là chuỗi đốt ngắn hơn) trong phân bệnh nhân. Những đốt sán này thường bò nhung nhúc ra khỏi ruột của vật chủ. Những đốt sán có hình dạng quả bí ngô với hiện diện 2 lỗ sinh dục; Bọc trứng có chứa trứng hiếm khi tìm thấy trong phân.

Điều trị: các thuốc được lựa chọn điều trị là: Niclosamide hoặc Praziquantel.

Đôi khi bọ chét cũng có khả năng truyền một số bệnh khác do vi khuẩn hoặc ký sinh trùng từ động vật sang người như bệnh do vi khuẩn Francisella tularensis… Trẻ em thường chơi đùa với động vật nuôi ở trong nhà như chó, mèo nên có thể bị nhiễm sán vì nuốt phải các bọ chét đang mang sán ở giai đoạn có thể gây nhiễm.

Bọ chét gây bệnh viêm da

Triệu chứng lâm sàng của viêm da do bọ chét

Ngoài truyền bệnh, bọ chét có thể gây các bệnh da. Khi bọ chét đốt người để hút máu sẽ gây phản ứng dị ứng ở da. Đó là phản ứng của cơ thể với nước bọt của bọ chét tiết ra khi đốt người . Thời gian xuất hiện phản ứng da tùy thuộc vào từng đối tượng, thường trong khoảng từ 12 đến 24 giờ sau khi bị bọ chét đốt. Trường hợp phản ứng muộn có thể xuất hiện sau 1 tuần.

Ở Việt Nam thường gặp bọ chét chó (Ctenocephalides felis) và bọ chét mèo (Ctenocephalides cards). Ngứa là triệu chứng chính xuất hiện sau khi bị bọ chét đốt. Ngứa làm bệnh nhân gãi có thể gây trầy xước da, sau xuất hiện các sẩn huyết thanh kích thước l-2mm, gờ cao hơn mặt da, đỉnh chóp sẩn có mụn nước nhỏ.

Tổn thương viêm da do bọ chét
Tổn thương viêm da do bọ chét

Những trường hợp phản ứng mạnh (hay gặp ở trẻ em) có thể thấy xuất hiện bọng nước tại vị trí bọ chét đốt. Xung quanh có quầng đỏ gây viêm quầng hoặc gây viêm tấy đỏ lan tỏa, bội nhiễm… Những trường hợp phản ứng nhẹ thì chỉ thấy ban đỏ tại nơi bọ chét đốt giống như muỗi đốt.

Viêm da do bọ chét

Vị trí thương tổn thường gặp ở phần da hở hoặc ở những vùng da tiếp xúc trực tiếp với con vật khi người ta ôm, bế chúng như: vùng cổ, mặt, tay, chân, vùng quanh thắt lưng.

Triệu chứng viêm da do bọ chét
Triệu chứng viêm da do bọ chét

Chẩn đoán bệnh viêm da do bọ chét

+ Chẩn đoán viêm da do bọ chét dựa vào lâm sàng, tìm nguồn lây bệnh (chó, mèo nuôi trong nhà).

+ Chẩn đoán phân biệt viêm da do bọ chét với bệnh do các côn trùng khác đốt, sẩn ngứa do các nguyên nhân khác.

Điều trị viêm da do bọ chét

Khống chế được sự phát triển của bọ chét là hết sức phức tạp. Bởi vì, vòng đời của bọ chét có nhiều giai đoạn phát triển ngoài vật chủ.

Trước hết phải cắt nguồn lây. Vật nuôi trong nhà là nguồn lây đầu tiên và là nguồn dự trữ mầm bệnh. Vì vậy, phải xác định con vật nào có bọ chét (chó, mèo…) để loại bỏ hoặc điều trị cho chúng, đồng thời phải vệ sinh nơi ở của chúng bằng cách phun hoặc xịt thuốc trừ sâu, thuốc diệt côn trùng để tiêu diệt trứng, ấu trùng, nhộng và bọ chét trưởng thành.

Điều trị thương tổn da trong bệnh viêm da do bọ chét

Điều trị tại chỗ là chủ yếu

+ Kem kháng histamin.

+ Kem corticoid.

+ Hoặc DEP.

+ Nếu có viêm tấy, bội nhiễm dùng thuốc sát khuẩn hoặc kem kháng sinh.

Điều trị toàn thân:

+ Nếu ngứa nhiều có thể kết hợp uống kháng histamin.

+ Nếu bội nhiễm thì dùng kháng sinh toàn thân.

Chú ý vệ sinh quần, áo, chăn chiếu và nơi ở.

Các biện pháp phòng bệnh do bọ chét

Các biện pháp phòng chống được sử dụng tùy thuộc vào mục tiêu là diệt bọ chét truyền bệnh hay bọ chét thông thường.

Để phòng chống bệnh dịch hạch và bệnh dịch sốt phát ban do bọ chét truyền phải kết hợp 2 biện pháp: diệt chuột và phun hoặc rắc hóa chất tiêu diệt bọ chét vào nơi sống của chuột.

Đối với các loài bọ chét gây phiền hà có thể sử dụng các biện pháp tự bảo vệ cá nhân như chất xua đuổi côn trùng, dùng quần áo tẩm hóa chất diệt côn trùng. Cần vệ sinh nhà cửa, phòng ngủ, thường xuyên giặt chăn màn, phun hoặc rắc hóa chất diệt côn trùng vào các khe, kẽ, góc phòng.

Đối với bọ chét chó, mèo sử dụng hóa chất rắc, phun, tắm vào lông của chúng, hoặc dùng lufenuron. Lufenuron theo máu được bọ chét cái hút vào khi đốt vật chủ có tác dụng ngăn cản sự phát triển của trứng. Ngoài ra, có thể sử dụng vòng cổ có tẩm hóa chất diệt bọ chét cho động vật.

Tài liệu tham khảo

Christopher J. steen, Robert A Schwartz. 2008. Arthopod Bites and Stings. Fitzpatrick’s Dermatology in General Medicine. 7th Edition, chappter 210, Volume 2, 2061.

Derk M. Elston, Asra All, Melissa A. Bogle, AlynD. Hattter. 2015. Cutaneous Infestatuons, Dermatology, 3rd edition, 283-288.

Guinnepaỉn M.T. 1992. Piqures et Morsures D’insectes. Therapeutique Dermatologique. Flammarion Medicine Sciences. 441- 442.

Nguyễn Văn Đề, Phạm Văn Khuê. 2009. Bệnh ký sinh trùng truyền lây giữa người và động vật. Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam,1990-1991.

Thomas p. Habif. 2010. Infestations and Bites. Clinical Dermatology, fifth edition, Mosby. Chapter 15, 622.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *