Bệnh trứng cá (Acne)

>> BỆNH TRỨNG CÁ (Acne) là một bệnh da thông thường rất hay gặp ở tuổi thanh thiếu niên và hiện nay có xu hướng tăng lên. Bệnh có thể tiến triển lâu dài trong nhiều năm, ảnh hưởng tới thẩm mỹ, tâm lý và sự tự tin của người bệnh. Hiện nay có rất nhiều thuốc và các sản phẩm hỗ trợ và điều trị trứng cá.

Đại cương bệnh trứng cá

Bệnh trứng cá (Acne) là một bệnh da thông thường rất hay gặp ở tuổi thanh thiếu niên. Bệnh có thể tiến triển lâu dài trong nhiều năm, ảnh hưởng tới thẩm mỹ, tâm lý và sự tự tin của người bệnh.

Có nhiều nguyên nhân và yếu tố liên quan tới cơ chế bệnh sinh của bệnh. Tuy nhiên, có ba nguyên nhân chính gây bệnh trứng cá đã được xác định. Đó là tăng bài tiết chất bã, dày sừng cổ nang lông và vai trò của vi khuẩn Propionebacterium acnes (P. acnes).

Ngoài ra, một số yếu tố như: môi trường, vệ sinh, ăn uống, tâm sinh lý, sử dụng thuốc khiến bệnh nặng thêm. Việc điều trị bệnh trứng cá trong những năm qua đã có nhiều tiến bộ đáng kể. Tuy nhiên, đối với những thể đặc biệt như trứng cá tối cấp (acne fuminans), trứng cá sẹo lồi (acne keloidalis nuchae), trứng cá bọc (acne conglobata) cần phối hợp điều trị tại chỗ, toàn thân với nhiều loại thuốc, nhiều phương pháp phối hợp.

Căn nguyên sinh bệnh trứng cá

Do tăng bài tiết chất bã

Dehydroepiandrosteron (DHEA) dưới tác động của enzym 3P-HSD (3p- hydroxysteroid dehydrogenase) và enzym 17p-Hydroxysteroid dehydrogenase biến đổi thành testosteron.

Enzym 5a-reductase biến đổi testosteron thành DHT (Dihydro-testosterone).

DHT là thành phần hormon sinh dục nam giữ vai trò quan trọng trong cơ chế bệnh sinh của bệnh trứng cá.

DHT kích thích tuyến bã, làm tuyến bã giãn rộng, đồng thời cũng kích thích các tế bào tuyến bã tăng cường sản xuất các chất bã nhiều hơn so với bình thường.

Ngoài ra, một số yếu tố khác cũng liên quan tới tiết chất bã nhờn: di truyền, cơ địa, stress, môi trường, thời tiết…

Do sừng hóa cổ nang lông

Sừng hóa cổ nang lông chịu nhiều tác động, ảnh hưởng của một số yếu tố sau đây:

Dihydrotestosteron kích thích các tế bào sừng ở cổ nang lông tăng sinh.

Interleukine-1 a làm tăng các tế bào sừng ở cổ nang lông.

Acid linoleic giảm cũng làm tăng sinh tế bào sừng cổ nang lông, đồng thời tăng sản xuất các chất tiền viêm.

Tăng sinh các tế bào sừng ở cổ nang lông do các yếu tố trên đã tạo thành các khối sừng làm chít hẹp đường thoát chất bã lên da. Hậu quả là chất bã (được sản xuất quá nhiều do sự kích thích của DHT) cùng với vi khuẩn p.acnes, acid béo, các sản phẩm viêm,… không thoát ra được tạo thành nhân trứng cá (comedone).

Căn sinh bệnh trứng cá
Căn sinh bệnh trứng cá

Vai trò của vi khuẩn P.acnes

P.acnes là một trực khuẩn Gram (+), yếm khí và hiếu khí nhẹ cư trú trong nang lông tuyến bã. Sự hiện diện và hoạt động của P.acnes đóng một vai trò quan trọng trong cơ chế bệnh sinh của trứng cá

Các vi khuẩn này có khả năng phân hủy các chất béo có trong chất bã, giải phóng các acid béo tự do gây viêm. Đồng thời, các acid béo này cũng có khả năng kích thích phát triển p.acnes nhanh. Phản ứng viêm xảy ra và giải phóng các cytokin tiền viêm như IL-1, IL-8, IL-12 và TNF-a.

Như vậy, với hiện tượng tăng bã tiết chất bã quá mức dưới tác động của dihydrotestosteron và tăng sừng hóa cổ nang lông làm chất bã ứ trệ tạo điều kiện p.acnes phát triển, tăng cường hoạt động gây phản ứng viêm, giải phóng các chất tiền viêm, tạo thành các sẩn viêm, mụn, nang lớn…

Một số yếu tố khác

Một số yếu tố sau đây có thể liên quan tới sự xuất hiện trứng cá hoặc làm bệnh nặng thêm:

– Lạm dụng mỹ phẩm và thuốc bôi, đặc biệt là các sản phẩm có chứa corticoid.

– Lạm dụng các thuốc dùng đường toàn thân, đặc biệt là corticoid.

– Ăn uống: ăn quá nhiều đường, sữa…

– Stress

– Môi trường, khí hậu…

Triệu chứng lâm sàng của bệnh trứng cá

Thương tổn da: có 2 loại thương tổn chính là thương tổn không viêm và thương tổn viêm.

Thương tổn không viêm

Bao gồm các nhân trứng cá (comedone):

Nhân mở (open comedone): nhân có màu đen do hiện tượng oxy hóa các chất sừng keratin nên con gọi là nhân đầu đen. Những nốt đen nổi cao hơn mặt da và có thể thoát ra ngoài.

Nhân đóng (closed comedone): hay còn gọi nhân đầu trắng. Các nhân có màu trắng hơi nhô cao hơn mặt da. Thương tổn có thể biến mất hoặc biến thành nhân đầu đen (nhân mở).

Thương tổn của bệnh trứng cá
Thương tổn của bệnh trứng cá

Thương tổn viêm

– Mụn mủ: khu trú vùng da mỡ, có thể nhiều sẩn tập trung thành từng đám, số lượng có thể nhiều hoặc ít tuỳ mức độ bệnh.

– Sẩn mủ: các nang lông bị giãn rộng, viêm, có mủ tạo thành các sẩn hình nón.

– Cục: viêm sâu hơn, rộng hơn tạo thành các cục, nang khu trú ở trung bì.

– Áp xe: các cục tập hợp tạo thành ổ mủ sền sệt lẫn máu.

– Một số thương tổn khác: Dát đỏ, dát thâm.

Các thể lâm sàng của bệnh trứng cá

Trứng cá thông thường (Acne vulgaris)

Đây là thể hay gặp nhất, thương tổn là các nhân mở hoặc kín, sẩn mủ, nang viêm,… khu trú ở vùng da mỡ như mặt, lưng, ngực.

Trứng cá bọc (Acne conglobata)

Đây là một trong những thể nặng của bệnh, thương tổn cơ bản là các nang, áp xe chứa nhiều mủ, đau. Ngoài ra, còn có các sẩn mủ, mụn mủ, sẹo…

Trứng cá bọc (Acne conglobata)
Trứng cá bọc (Acne conglobata)

Trứng cá tối cấp (Acne fulminans)

Các thương tổn xuất hiện cấp tính, vỡ, loét rất đau, sốt cao. Thương tổn hay khu trú ở ngực, lưng và hay gặp ở trẻ em nam.

Trứng cá tối cấp (Acne fulminans)
Trứng cá tối cấp (Acne fulminans)

Trứng cá sẹo lồi (Acne keloidalis nuchae)

Các thương tổn khu trú ở lưng, ngực tiến triển dai dẳng, xơ hóa và phát triển thành sẹo, lan ra xung quanh.

Trứng cá do mỹ phẩm (Acne cosmetica)

Thường gặp ở những người hay lạm dụng các loại mỹ phẩm không thích hợp.

bệnh trứng cá do mỹ phẩm
Trứng cá do mỹ phẩm

Trứng cá do yếu tố cơ học (Acne mechanica)

Thương tổn thường xuất hiện sau tác động như nặn, bóp, cọ xát.

Trứng cá nghề nghiệp (Occupational acne)

Việc tiếp xúc lâu dài với các chất như dầu mỡ, bụi than…trong môi trường làm việc cũng tạo điều kiện xuất hiện các mụn trứng cá.

Trứng cá do thuốc (Drug-induced acne)

Lạm dụng các thuốc bôi, xông, uống, tiêm, đặc biệt các sản phẩm chứa corticoid sẽ gây bệnh trứng cá.

Chẩn đoán bệnh trứng cá

Chẩn đoán xác định

Dựa vào các triệu chứng lâm sàng.

Chẩn đoán mức độ

Dựa vào số lượng, tính chất thương tổn người ta phân bệnh trứng cá thành 3 mức nhẹ, vừa và nặng (theo American Family Physician và DermNet New Zealand)

– Thể nhẹ: ít hơn 20 nhân trứng cá không viêm hoặc có ít hơn 15 sẩn viêm hoặc tổng cộng có ít hơn 30 thương tổn.

-Thể vừa: Có từ 20-100 nhân trứng cá không viêm hoặc có 15-50 sẩn viêm hoặc tổng cộng có 30-125 thương tổn.

– Thể nặng: có 5 nốt/cục/nang hoặc có trên 100 nhân trứng cá hoặc có trên 50 sẩn viêm hoặc có trên 125 thương tổn.

Điều trị bệnh trứng cá

Hiện nay có nhiều phương pháp điều trị khác nhau. Tuy nhiên, việc lựa chọn thuốc bôi, thuốc uống phải phù hợp từng bệnh nhân, từng thể bệnh.

Nguyên tắc điều trị bệnh trứng cá

– Điều trị đúng thuốc, đúng phác đồ. Nếu sau một tháng điều trị không có kết quả, cần hội chẩn, xem xét lại.

– Cần phối hợp các thuốc bôi, tốt nhất là kháng sinh với retinoid.

– Không điều trị kháng sinh (bôi/uống) đơn độc và kéo dài để tránh hiện tượng kháng thuốc.

– Điều trị sớm để tránh biến chứng.

– Tránh các yếu tố khởi động, kích thích làm bệnh nặng lên như stress, thức khuya, làm việc quá sức, ăn uống quá nhiều đường, sữa…

– Cần phối hợp điều trị các nhiễm khuẩn, ký sinh trùng… nếu có.

– Có thể điều trị các biến chứng của bệnh như: dát thâm, sẹo lõm, sẹo lồi… bằng các phương pháp đặc biệt như: ánh sáng trị liệu, laser, phẫu thuật.

Các thuốc điều trị bệnh trứng cá

Các thuốc điều trị tại chỗ

Kháng sinh tại chỗ: clindamycin 1%, erythromycin,… không nên sử dụng một loại thuốc bôi quá 2 tháng.

Benzoyl peroxide (BPO): thuốc vừa có tính chất diệt khuẩn vừa có tác dụng tiêu sừng ở cổ nang lông.

Retinoid: thuốc có tác dụng diệt khuẩn, chống viêm, tiêu sừng và điều hoà miễn dịch tại chỗ. Các thuốc hay được sử dụng là tretinoin, adapalen, tazaroten.

Acid azelaic: thuốc có tác dụng tiêu sừng và kháng viêm, ngoài ra còn có tác dụng ức chế enzym tyrosinase giúp giảm sắc tố sau viêm.

Các thuốc điều trị toàn thân

Kháng sinh

Sử dụng kháng sinh trong điều trị trứng cá thể vừa và nặng là vô cùng quan trọng vì nó có tác dụng diệt p.acne góp phần ngăn chặn mụn trứng cá lan tràn nặng ra xung quanh. Các thuốc kháng sinh thường sử dụng:

Azithromycin: liều từ 250-500 mg x 3 lần/tuần hoặc tổng liều 6g trong vòng 10 tuần.

Cyclin thế hệ thứ 2: doxycyclin 100 mg và minocyclin 100 mg. Thuốc có tác dụng kháng khuẩn và chống viêm. Liều dùng 100-200 mg/ngày, mỗi đợt dùng 2-3 tuần, có thể dùng liều thấp hơn nhưng có nguy cơ kháng thuốc. Thuốc có tác dụng không mong muốn là làm tăng nhạy cảm với ánh sáng. Không dùng thuốc cho trẻ em và không dùng thuốc cùng với retinoid.

Erythromycin: liều từ 1-1,5 g/ngày có tác dụng kháng khuẩn.

Clindamycin: liều 300-600 mg/ngày.

Isotretinoin

– Chỉ định trong điều trị bệnh trứng cá mức độ vừa đến nặng, trứng cá dai dẳng, điều trị bằng các thuốc khác không đáp ứng. Thuốc có tác dụng ức chế sản xuất tuyến bã và bình thường hoá quá trình sừng hóa ở cổ nang lông. Ngoài ra, nó còn có tác dụng gián tiếp ức chế p.acne phát triển và có tác dụng chống viêm.

– Liều: 0,5-1 mg/kg/ngày, thời gian điều trị với trứng các mức độ nặng thường là 4-6 tháng.

– Tác dụng phụ của thuốc: khô da, khô môi, khô mắt và đặc biệt có thể gây quái thai. Vì vậy, phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ nếu dùng thuốc này cần áp dụng các biện pháp tránh thai, nếu muốn có thai phải dừng thuốc trước khi có thai ít nhất 1 tháng. Không dùng thuốc đồng thời với thuốc nhóm cyclin.

Liệu pháp hormon

Trong trường hợp trứng cá mức độ từ vừa đến nặng nhưng không đáp ứng với các thuốc điều trị đã nêu trên, có thể sử dụng liệu pháp hormon. Tuy nhiên, cần cân nhắc trên từng bệnh nhân cụ thể trước khi sử dụng thuốc nhóm này. Liệu pháp này bao gồm: thuốc ngừa thai, thuốc kháng androgen (spironolactin, cyproteron acetat,…). Thuốc flutamid có tác dụng ức chế thụ thể androgen có thể phối hợp với thuốc ngừa thai uống rất hiệu quả trong điều trị trứng cá và chống rậm lông.

Phác đồ điều trị bệnh trứng cá

Hiện nay, có nhiều phác đồ điều trị khác nhau, tuỳ theo từng vùng, từng quốc gia. Phác đồ dưới đây đã được chuẩn hoá và áp dụng ở Việt Nam (Dựa theo mức độ nặng nhẹ của bệnh và điều trị trong thời gian từ 3-5 tháng).

NhẹVừaNặngDuy trì
Bôi: retinoid và thuốc bong sừng. Hoặc: retinoid và kháng sinh. Hoặc: kháng sinh và benzoyl peroxyde (BP).Bôi: retinoid với kháng sinh hoặc với BP. Uống: kháng sinh. Có thể dùng isotretinoin nếu bệnh dai dẳng, tái phát.Bôi: retinoid với BP hoặc với kháng sinh. Uống: Isotretinoin hoặc/và kháng sinh, hoặc biện pháp hormon.Bôi: retinoid với kháng sinh hoặc kháng sinh với BP.
Phác đồ điệu trị mụn trứng cá

Tài liệu tham khảo

Fitzpatrick. Thomas (2012). Dermatology in general medicine. McGraw Hill Medicine, pp. 897-917.

Jonette E. Keri, Rajiv L. Nijhawan (2008). Diet and acne. Expert review of Dermatology, 3(4). pp: 437-448.

Lawrence A Schachner, Ronald c Hansen (2011). Pediatric Dermatology. Mosby, pp: 827-850.

Mark Lebwohl, Warren R. Heymann et al. (2002). Treatment of skin diseases. Mosby, pp: 6-13.

Robert A Schwrtz, Giuseppe Micali (2013). Acne. Macmillan, pp: 77-109.

Ronald B. Johnson (2012). Weedon’s Skin pathology essentials. Elsevier Churchill Livingstone, pp: 299-307.

Thomas p. Habif (2010). Clinical Dermatology, 5th edition. Mosby, pp: 217-247.

Thomas p. Habif (2010). Acne, Rosacea and Realted Disorders. Clinical Dermatology, Mosby Elsevier, pp: 217-263.

Wolverton, Wilkin (1991). Systemic Drugs for skin diseases. Harcourt BJInc, pp:

187-206.

Trần Hậu Khang. (2015). Phác đồ điều trị bệnh trứng cá. Tạp chí Da liêu học Việt Nam. 20, 12/2015. tr: 72.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *